Để hoàn thành bài văn miêu tả đối với học sinh lớp 4 thường gặp rất nhiều khó khăn. Do đặc điểm tâm lí, học sinh tiểu học còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý quan sát chưa tinh tế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến khi viết văn miêu tả, học sinh còn thiếu vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả,...hoặc không biết cách diễn đạt điều muốn tả. Đối với giáo viên đây cũng là loại bài khó dạy. Giáo viên còn thiếu linh hoạt trong vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Vì vậy, không phải giờ dạy văn miêu tả nào cũng đạt hiệu quả như mong muốn, và không phải giáo viên giáo viên nào cũng dạy tốt văn miêu tả. Việc tìm tòi phương pháp để hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý, lập dàn ý, tưởng tượng,...còn nhiều hạn chế. Do đó, tôi đã nghiên cứu chuyên đề “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4” với hy vọng góp phần nâng cao trình độ chuyên môn cho bản thân, nâng cao chất lượng dạy-học văn miêu tả ở lớp 4 cho học sinh.
Mục đích CĐ
Giúp học sinh lớp 4
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc.
- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các em.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.
Giúp giáo viên
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt và sáng tạo.
- Tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy TLV nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
Nội dung dạy văn miêu tả lớp 4
a) Yêu cầu kiến thức:
- Thể loại văn miêu tả.
- Học sinh phải hiểu thế nào là miêu tả?
- Miêu tả đồ vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả đồ vật.
- Miêu tả cây cối: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả cây cối.
- Miêu tả con vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả con vật.
b) Yêu cầu kỹ năng: Chương trình TLV miêu tả (nhằm trang bị cho học sinh những kĩ năng sản sinh ngôn bản), cụ thể:
- Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp: Nhận diện đặc điểm văn bản; phân tích đề bài, xác định yêu cầu.
- Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp: Xác định dàn ý của bài văn đãcho; quan sát đối tượng tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả
- Kĩ năng thực hiện hoá hoạt động giao tiếp: Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt; sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt.
.
Thực tế dạy học văn miêu tả lớp 4
2.1. Thuận lợi
Từ lớp 2, 3, học sinh được tập quan sát và trả lời câu hỏi để làm quen với văn miêu tả, đã biết cách luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm lĩnh tri thức. Đối tượng miêu tả khá gần gũi với học sinh nông thôn (cây bàng, con gà,…).
Đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, giàu cảm xúc và sức sáng tạo. Thế giới của các em là thế giới cổ tích. Những đồ vật, con vật, cây cối là những người bạn thân thiết, gần gũi mà các em có thể tâm tư, chia sẻ tình cảm của mình. Đặc điểm tâm lí này rất thuận lợi cho việc khơi gợi ở các em những cảm xúc miêu tả bất ngờ, thú vị,…
2.2. Khó khăn
Lên lớp 4, các em mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành bài văn hoàn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế, nhất là với học sinh ở trường nông thôn như địa bàn chúng tôi. Mỗi bài văn miêu tả hay lại đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ diễn đạt thật sinh động. Thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết văn miêu tả chưa hay hoặc sắp xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài văn chưa gợi tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép một cách sống sượng bài văn mẫu. Vậy nguyên nhân tại đâu? Đó là điều trăn trở của tôi cũng như các giáo viên khác trong khối. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi đã luôn tìm tòi, tham khảo tài liệu, trao đổi với đồng nghiệp để nắm bắt những phương pháp tối ưu nhất phục vụ quá trình giảng dạy.
Mỗi bài văn miêu tả là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, là sự đúc kết việc tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học. Đọc một số bài văn của học sinh, ta có thể thấy ngay được kết quả của việc dạy và học.
Kiểm nghiệm bài văn miêu tả của học sinh lớp 4
2.3.1. Một số lỗi thường gặp
Bài văn ngắn, kể lể, ít hình ảnh,…
Ví dụ 1:
- Cái cặp của em nhiều màu. Mặt trước có siêu nhân rất đẹp. Nó có ba ngăn. Một ngăn em để bút, một ngăn em để vở, một ngăn để sách.
- Cây bàng cao đến mái nhà. Thân nó to, xù xì. Cây bàng có nhiều cành, tán rộng. Lá màu xanh. Quả ăn có vị chát.
Đoạn văn như vậy được coi là tạm được vì đúng ý. Câu văn rõ nghĩa. Nhưng miêu tả như vậy chỉ cần vài câu là tả xong một đồ vật, một cây. Và nó cũng rất chung chung, không làm nổi bật được nét riêng của đồ vật đó, cây đó.
Đọc bài văn miêu tả của các em, ta còn thấy sự khô khan, nghèo cảm xúc, sự liệt kê lan man, dài dòng, lủng củng, lộn xộn, không lột tả được đối tượng miêu tả, đôi khi còn bịa đặt.
- Nhiều em muốn bắt chước cho bài văn hay hơn đã sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá một cách tuỳ tiện. VD: Quả bàng to như con lợn con.
- Hình thức câu lặp lại nhiều lần: Mắt của nó màu đen. Râu của nó dài. Lông thì đen…
- Chưa liên kết chặt chẽ giữa các câu trong đoạn, trong dài.
- Chưa biết sử dụng dấu câu nhằm nâng cao hiệu quả diễn đạt. VD: Cún con mới dễ thương làm sao. (!)………
Bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 hầu hết mắc những lỗi: Lỗi chính tả, lỗi dấu câu, lỗi diễn đạt, lỗi chủ đề. Cụ thể như sau:
- Lỗi chính tả: Học sinh chủ yếu vẫn thường sai phụ âm đầu l/n (chủ yếu), s/x, d/r/gi.
- Lỗi dấu câu:
+ Không dùng dấu câu: Xảy ra nhiều với học sinh Chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng. Các em không sử dụng hoặc ít sử dụng dấu chấm, dấu phẩy trong một câu hoặc trong một bài văn.
+ Sử dụng dấu câu sai. Ví dụ: Cây bàng cao thân cây. Xù xì.
- Lỗi diễn đạt:
+ Lỗi dùng từ không phù hợp. VD: Con mèo có bộ lông trắng tinh.
+ Câu không đủ thành phần. VD: Có nhiều cành, nhiều lá rậm rạp
+ Câu thừa thành phần( lặp lại thành phần một cách không cần thiết). VD: Em rất yêu quý con mèo nhà em.
+ Câu có nội dung trùng lặp với câu khác trong bài văn.VD: Con gà trống dậy rất sớm. Nó dậy sớm để báo thức mọi người.
+ Câu không phân định được thành phần. VD: Em phải giữ gìn chiếc đồng hồ để trên mặt tủ.
+ Câu sai nghĩa. VD: Con mèo nặng khoảng 2 tạ.
+ Câu không rõ nghĩa. VD: Con mèo lông trắng mắt nó em yêu chú lắm.
+ Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế câu.
Ví dụ 2: Chiếc cặp của em màu đỏ giúp em học giỏi.
+ Các câu trong bài mâu thuẫn nhau: Cây bàng to, mập mạp. Thân cây khẳng khiu.
- Lỗi lạc chủ đề. Ví dụ: Tả chiếc cặp: Ngăn ngoài của cặp em đựng bút. Chiếc bút màu đỏ rất đẹp.
Như vậy, ta thấy bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 mắc rất nhiều lỗi. Tuỳ theo mức độ, học sinh có khả năng hạn chế hơn một số lỗi cơ bản. Ở đây đặt ra một vấn đề cấp thiết là dạy học sinh viết văn sao cho mạch lạc, giàu hình ảnh, tái hiện được cụ thể, sinh động đối tượng miêu tả.
Nguyên nhân
- Giáo viên chưa khơi gợi được sự ham học, yêu thích miêu tả đồ vật, con vật, cây cối,...xung quanh, chưa tạo được động cơ học văn miêu tả ở các em.
- Các em chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được sự khác biệt giữa văn bản miêu tả với các kiểu bài văn khác.
- Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh tế.
- Vốn từ miêu tả còn nghèo nàn. Chưa có thói quen tích luỹ các từ ngữ gợi tả.
- Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, kĩ năng diễn đạt,…còn hạn chế. Các em chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố cục thiếu rõ ràng, chưa khoa học.
- Không có thói quen sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá khi viết văn.
- Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế; cảm xúc, tình cảm không tự nhiên, có sự gượng ép.
- Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ, đầy đủ; các em cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.
- Các em chưa thực sự cảm thấy yêu môn học.
Một số biện pháp rèn viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4
a) Tạo động cơ học văn miêu tả ở học sinh bằng nhiều kỹ năng khi học tập làm văn
- Đó là các kỹ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kỹ năng lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn.
- Nhiệm vụ của phân môn TLV bậc tiểu học, mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Trong đó, học văn miêu tả góp phần phát triển tư duy hình tượng của trẻ được rèn luyện phát triển nhờ các biện pháp so sánh, nhân hoá,…khi miêu tả. Nhưng làm thế nào để thực hiện được nhiệm vụ trên mà không biến các em thành những “thợ” viết văn? Vậy ta cần kích thích các em yêu văn và có nhu cầu viết văn.
- Trước hết, hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị trong đối tượng miêu tả. Ví dụ: Giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh cây hoa phượng đang ra hoa đỏ rực và hỏi: Quan sát tranh, em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà nhà văn Xuân Diệu đã ví “như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.”?
- Học sinh sẽ phân tích tìm ra đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của cây hoa với muôn ngàn con bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn cho các em óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em suy luận.
- Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những kĩ năng sống khác. Như dạy các em biết giữ gìn đồ vật, tổ chức học sinh trồng, chăm sóc và bảo vệ cây…
- Khi ra đề TLV, giáo viên nên chú ý đề bài yêu cầu viết về những gì gần gũi, thân thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích các em muốn nói, viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu. Ví dụ:
Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm của em.
Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng.
Đề 3: Em thích loài hoa nào nhất? Hãy tả loài hoa đó.
- Khi học sinh đã có hứng thú học văn miêu tả, ta tiếp tục duy trì điều đó trong suốt quá trình học tập và tích cực rèn các kĩ năng khác theo yêu cầu khi viết văn.
Ngoài ra, bên cạnh yêu cầu duy trì chủ đề, để đạt mục đích giao tiếp, bài văn phải có sự phát triển, chủ đề phải được triển khai. Giáo viên cần chỉ ra các hướng cho học sinh viết bài: viết theo trình tự thời gian, không gian hay từ toàn thể đến bộ phận…
b) Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
- Miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho người nghe người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả
• Tả đồ vật:
Đối tượng của văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 là những vật học sinh thường thấy trong đời sống hàng ngày gần gũi với các em, vì vậy cũng dễ trở thành gần gũi với các em.
Đó có thể là cái trống, cái bút, quyển vở, cặp sách, cái đồng hồ báo thức,…Chúng lànhững đồ vật vô tri, vô giác nhưng gần gũi và có ích đối với học sinh.
Mỗi đồ vật đều có một hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu cụ thể. Học sinh miêu tả những đặc điểm này trong bài văn của mình. Với những đồ vật có nhiều bộ phận, các em cần tập trung tả những bộ phận quan trọng nhất. Đó chính là những nét tiêu biểu để phân biệt đồ vật này với đồ vật khác.
Đồ vật lại thường gắn liền với cuộc sống con người nên khi miêu tả phải nói tới công dụng, lợi ích của đồ vật cũng như tình cảm của con người đối với nó. Có như vậy, đồ vật mới hiện lên một cách sinh động và có hồn.
• Tả cây cối:
Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây trồng xung quanh học sinh. Đó có thể là một cây hoa, cây ăn quả hay cây cho bóng mát,… những cây có ích và gần gũi với các em. Mỗi loại cây có một hình dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định. Vì vậy, khi miêu tả chúng, học sinh phải làm nổi bật những đặc điểm này. Tả cây ăn quả cần tập trung miêu tả hình dáng của cây, mùi vị của qủa; tả cây lấy hoa cần tả hương sắc của hoa; tả cây cho bóng mát phải làm rõ dáng cây, tán lá,…
Cây cối luôn sống trong thiên nhiên. Khi miêu tả, cần gắn chúng với miêu tả sơ lược khung cảnh xung quanh như mặt trời, đám mây, chim chóc, ao hồ và cả con người. Ta cũng cần chú ý tới lợi ích của chúng và tình cảm yêu mến gắn bó của người tả đối với cây.
• Tả loài vật:
Đối tượng của văn miêu tả loài vật là những con vật quen thuộc gần gũi với học sinh. Đó là những con gà mái, gà trống, cún con, chú mèo,…Mỗi con vật đều có đặcđiểm về hình dáng, đặc tính giống nòi riêng. Khi miêu tả, ta miêu tả cái chung, và cả những nét tiêu biểu của loài vật như màu sắc, vóc dáng, tính nết. Những con vật miêu tả là những con vật gần gũi thân thiết và có nhiều lợi ích nên bài văn phải thể hiện được sự chăm sóc, tình cảm yêu mến của học sinh đối với chúng.
Ở Tiểu học, phân môn TLV có nhiệm vụ rèn kĩ năng nói theo nghi thức lời nói, nói, viết các ngôn bản thông thường, viết một số văn bản nghệ thuật như miêu tả. Viết văn miêu tả, học sinh phải có kĩ năng đặc thù là quan sát, diễn đạt một cách có hình ảnh. TLV cũng góp phần rèn luyện tư duy hình tượng, từ óc quan sát đến trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được. Khả năng tư duy logic của học sinh cũng được phát triển trong quá trình phân tích đề, lập dàn ý viết đoạn. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách vận dụng các giác quan để quan sát, biết cách lựa chọn vị trí và thời gian quan sát, biết cách liên tưởng và tưởng tượng khi nhận xét sự vật và phải biết diễn đạt điều quan sát được một cách gợi tả, gợi cảm, tức là có hình ảnh và cảm xúc…
Dù miêu tả đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng không bao giờ sao chép, chụp ảnh máy móc những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái mới, cái riêng biệt của đối tượng thông qua cảm nhận của mỗi người.
Chẳng hạn, Trần Đăng Khoa nhìn trăng bằng con mắt tinh tế bằng tình yêu của tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, trong sáng:
Trăng hồng như quả chin
Lửng lơ lên trước nhà…
…Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi…
… Trăng bay như quả bong
Bạn nào đá lên trời…
Nhà văn Thép Mới lại lấy cảm hứng của anh chiến sĩ đang mơ về tương lai của đất nước khi ngắm trăng trong đêm Trung thu độc lập đầu tiên: Trăng sáng mùa thuằng vặc chiếu khắp thành phố, làng mạc, núi rừng,…
Cùng là vầng trăng, hay một sự vật nhưng mỗi người cảm nhận theo cách riêng của mình, mà những người khác không phát hiện được hoặc chưa phát hiện được.
Với mỗi học sinh, mỗi bài tập làm văn là một sản phẩm của từng cá nhân các em trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, cách tả, cách diễn đạt,…Giáo viên cần có thái độ tôn trọng sự độc lập suy nghĩ sáng tạo nếu nó không biểu lộ những lệch lạc.
Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của người viết, nhưng không có nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách tuỳ ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật. Giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, sáo rỗng…
c) Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách lựa chọn hình ảnh, nội dung miêu tả.
* Quan sát đối tượng miêu tả cần chú ý:
- Quan sát tổng thể đối tượng; chú ý cả trạng thái động và tĩnh; quan sát bằng tất cả các giác quan thính giác, thị giác, xúc giác,…
- Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật kĩ.
- Quan sát và so sánh điểm giống và khác nhau với các đối tượng khác có ở xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.
- Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật xung quanh.
- Ghi chép cẩn thận, đầy đủ khi quan sát.
* Lựa chọn hình ảnh miêu tả và nội dung miêu tả
- Căn cứ vào hình ảnh đã lựa chọn khi quan sát.
- Căn cứ vào nội dung đã ghi chép.
- Chọn lọc những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và khácbiệt của đối tượng để miêu tả chi tiết.
- Lựa chọn hình ảnh, hoạt động khác của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên hình ảnh tổng thể về đối tượng; có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó mật thiết với đối tượng.
* Sắp xếp ý, đoạn:
- Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý (theo một thứ tự nào đó: từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới,…)
- Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã lựa chọn cho phù hợp. Để viết được bài văn,học sinh cần tập viết đoạn. Trong chương trình TLV, bài tập viết đoạn chiếm số lượng nhiều. Đoạn văn được phân loại theo chức năng: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. Cách phân loại này chi phối cách xây dựng các kiểu bài viết đoạn mở bài, viết đoạn thân bài và đoạn kết bài. Mỗi đoạn văn theo chức năng này lại được phân loại nhỏ hơn: mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng, kết bài tự nhiên (không mở rộng).
d) Giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả:
Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh, học sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả:
* Tích luỹ vốn từ:
- Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo; xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;..
- Ghi chép khi được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể như:
+ Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng khiu; xum xuê; rực rỡ; đo đỏ;…
+ Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,…
+ Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,…
- Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh,… để miêu tả cho sinh động.
* Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng:
Tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về đối tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi hơn. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong lòng người viết. Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình, thấy được tầm quan trọng của đối tượng được tả đối với chính mình và cả với những người xung quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách:
- Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.
- Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnhhưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
- So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng.
- Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
- Nhân hoá hay tự nhiên hoá một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
- Dự đoán trước khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới.
- Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối tượng từ trước tới nay.
- Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viếtcủa mình.
e). Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục bài văn.
Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài.
Khi học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá,…). Vì vậy, yêu cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài văn chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một “chỉnh thể”. Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản và chứa đựng trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận (xác định yêu cầu nói, viết và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,…). Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do đó, trong quá trình thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu trong các nhóm bài tập sau:
- Nhóm bài tập tiền sản sinh ngôn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác định nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết (miêu tả). Việc phân tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung, giới hạn của đề bài. Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em phải trả lời được câu hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần được bộc lộ trong bài viết như thế nào? Tình cảm của người viết phải thể hiện được qua cách miêu tả.
- Nhóm bài tập sản sinh ngôn bản gồm bài tập viết đoạn và bài tập viết bài văn:
+ Bài tập viết đoạn văn: rèn cho học sinh kĩ năng tạo lập được đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý. Các đoạn văn được luyện viết là đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), đoạn thân bài (mở rộng, không mở rộng). Các đoạn phải có sự liền mạch về ý (không rời rạc, lộn xộn), các ý trong đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính (có mở đầu, triển khai và kết thúc).
* Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn:
- Đoạn văn mở bài: Học sinh được học hai cách mở bài: mở bài trực tiếp và mở bàigián tiếp. Giáo viên nên để học sinh lựa chọn cách mở bài mà mình cho là hợp lí nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng một sự kiện, hoàn cảnh xuất hiện vật định miêu tả; hoặc bắt đầu bằng những câu thơ, ca dao…có liên quan đến yêu cầu của đề bài.
- Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết theo từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài. Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để miêu tả.
- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong một bài văn nhưng lại rấtquan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết bài khô cứng, gò bó, thiếu chân thực. Các em thường làm kết bài không mở rộng, điều đó khiến bài văn chưa có sự hấp dẫn. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn, gợi ý để học sinh biết cách và viết được phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên. Giáo viên có thể dùng câu hỏi gợi mở để khêu gợi cảm xúc của học sinh trong quá khứ, hiện tại, tương lai; hoặc trong hoàn cảnh nào đó đối với đốitượng được tả. Ví dụ: Tả cái trống trường: Ngày mới vào lớp 1, khi nghe tiếng trống trường, em có cảm giác gì? Bây giờ học lớp 4 rồi, ngày nào cũng nghe tiếng trống, em càng thấy như thế nào?...
+ Bài tập viết bài văn: thường được thực hiện trong cả một tiết học. Chúng luyện cho học sinh triển khai nhiệm vụ giao tiếp thành một bài. Bài văn phải có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại, các đoạn văn trong bài phải liên kết với nhau thành một bài văn hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần: Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người miêu tả với đối tượng miêu tả.
Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng các biện pháp nghệ thuật để lột tả hình ảnh một cách sinh động.
Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả. Nhóm bài tập viết đoạn, bài là những bài tập khó nhất, đòi hỏi sự sáng tạo nhất, yêu cầu học sinh phải vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết, cảm xúc về cuộc sống, về các đối tượng được tả và các kĩ năng ngôn ngữ đã được hình thành trước đó để tạo lập được đoạn, bài. Đây là một quá trình chuyển từ ý đến lời. Giáo viên phải luyện cho học sinh diễn đạt đúng những gì muốn tả. Ý có thể được diễn tả thành những lời khác nhau. Học sinh phải biết lựa chọn cách diễn đạt có hiệu quả nhất.
Để rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh, giáo viên phải giúp học sinh xác định được mục đích của bài viết, chủ đề của bài viết và duy trì chủ đề này trong suốt bài viết để bài văn không lan man.
Thật khó khi phân định đúng, sai ở một bài văn. Mà ta đánh giá bài văn đó có hay không, có đặc sắc không? Vì thế, bài văn phải bộc lộ tình cảm chân thành, hồn nhiên của các em ở từng câu, từng đoạn của bài, và cô đọng lại ở phần kết bài. Do vậy, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách tưởng tượng, bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên, liên tục; từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và cả trong tiết trả bài.
g. Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn
Để bồi dưỡng kĩ năng diễn đạt, học sinh sẽ thực hành một số bài tập luyện viết như: với các từ cho sẵn, viết thành câu, luyện dùng từ bằng cách sửa lỗi dùng từ; từ ý đã cho viết thành câu gợi tả, gợi cảm, viết có sử dụng biện pháp tu từ theo yêu cầu, làm các bài tập mở rộng thành phần câu… để cách diễn đạt được sinh động, gợi tả, gợi cảm hơn. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh. Ví dụ: Một học sinh tả chiếc bàn học:
Mỗi lúc học bài mệt em thường gối má lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm dìu dịu của một người bạn thân đã cần mẫn, miệt mài cùng em giải những bài toán khó. Miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả và cũng không phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như vậy. Học sinh có thể phát hiện tốt chi tiết có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì nhưng khi viết văn lại khó vận dụng được. Giáo viên cần có biện pháp nào giúp các em? Tôi đã giúp các em bằng cách như sau:
Ví dụ: Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả xã hội thắm tươi; người ta quên đoá hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.
- Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu trên.
- Nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.
- Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm (mà không phải một con).
- Tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh hoa phượng với hình ảnh khác theo cảm nhận của các em, hoặc so sánh loài hoa hay cây khác với hình ảnh nào đó. Chú ý giúp học sinh nhận ra những cách so sánh thú vị, giàu sức gợi tả và những so sánh không có giá trị.
- Yêu cầu các em ghi chép vào sổ tay những câu văn, thơ có sử dụng hiệu quả biện pháp nghệ thuật đó.
h. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn: Kĩ năng TLV trước hết được chia thành kĩ năng nói, kĩ năng viết. Ở lớp đầu cấp, khẩu ngữ của các em phát triển hơn còn kĩ năng viết mới được hình thành nên bị ảnh hưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy, mắc các lỗi được tính vào lỗi vi phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ ảnh hưởng tích cực trở lại với khẩu ngữ. Lên lớp 4,5 kĩ năng viết ngày càng phát triển. TLV có vai trò hàng đầu trong việc phát triển kĩ năng này. Đặc biệt, khi học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4 bước đầu được học diễn đạt lưu loát, giàu hình ảnh.
Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều người thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi trọng đến lôgic của các ý trong bài. Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa lỗi chính tả, chữa lời mà không chữa ý.
Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu của tiết trả bài để thực hiện một cách nghiêm túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”, không thể qua loa, đại khái. Muốn làm được nhưvậy, giáo viên phải tiến hành như thế nào?
* Chuẩn bị:
- Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu biểu cần khắc phục ngay cho các em.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt câu, lỗidiễn đạt,…;
Ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay. Kĩ năng TLV trước hết được chia thành kĩ năng nói, kĩ năng viết.
Ở lớp đầu cấp,khẩu ngữ của các em phát triển hơn còn kĩ năng viết mới được hình thành nên bị ảnhhưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy, mắc các lỗi được tính vào lỗi vi phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ ảnh hưởng tích cực trở lạivới khẩu ngữ. Lên lớp 4,5 kĩ năng viết ngày càng phát triển. TLV có vai trò hàng đầu trong việc phát triển kĩ năng này. Đặc biệt, khi học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4bước đầu được học diễn đạt lưu loát, giàu hình ảnh.
Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều người thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi trọng đến lôgic của các ý trong bài. Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa lỗi chính tả, chữa lời mà không chữa ý.
Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu của tiết trả bài để thực hiện một cách nghiêm túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”, không thể qua loa, đại khái. Muốn làm được như vậy, giáo viên phải tiến hành như thế nào?
Chuẩn bị:
- Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu biểu cần khắc phục ngay cho các em.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt câu, lỗi diễn đạt,…; Ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay.
- Thống kê và phân loại bài. Nhận xét chung về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh.
* Trong giờ trả bài:
Đây là tiết học thực hiện nhóm bài tập kiểm tra điều chỉnh. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại đoạn đã viết, tự kiểm tra đối chiếu với mục đích yêu cầu đặt ra lúc đầu để tự đánh giá, sửa chữa bài viết của mình. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xem xét cả nội dung và hình thức diễn đạt. Có thể phải cho học sinh luyện viết lại đoạn, bài.
- Tiến hành đúng như quy trình đã hướng dẫn (Linh hoạt về thời gian thực hiện cácbước, hình thức tổ chức sửa lỗi như thảo luận nhóm, tuỳ theo kết quả bài viết của học sinh).
- Lưu ý: Học sinh phải thấy được lỗi trong bài văn của mình và của bạn; sửa được lỗi đó và ghi nhớ nó; hiểu rõ và có nhu cầu học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay, giàuhình ảnh và sức gợi tả. Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Trước khi cho học sinh học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay cần lưu ý cho các em đọc lên (thành tiếng và đọc thầm) một cách diễn cảm thì tất cả các em mới cảm nhận được sự thú vị của cái hay đó.
Tuy nhiên, ta cũng không nên đòi hỏi quá cao ở học sinh. Tuỳ vào đối tượng học sinh mà đặt ra các em sửa lỗi hay học từ, câu, đoạn hay ở mức độ nào. Giáo viên cần kiên trì, bền bỉ, không thể nóng vội, kịp thời ghi nhận những tiến bộ của học sinh dù là nhỏ nhất.
Do vậy, khi học sinh biết viết văn miêu tả và viết được hay là khi các em đã bước đầu hiểu được đặc điểm của văn miêu tả, biết cách quan sát đối tượng, tích luỹ được vốn từ miêu tả nhất định, biết xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài; cách diễn đạt và xây dựng bố cục bài văn; biết cách tưởng tượng và sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn; được sửa lỗi kĩ lưỡng sau mỗi bài viết. Từ đó, các em viết bài dễ dàng hơn, thích thú hơn, có cảm xúc hơn, chất lượng bài viết được nâng cao.
i. Thực hiện dạy học theo quan điểm tích hợp và giáo dục bảo vệ môi trường
- Dạy học tích hợp với các môn học khác làm giàu vốn sống, vốn
hiểu biết của các em. VD: Thông qua học về chủ đề “Thực vật và động vật” của môn Khoa học, học sinh có thêm hiểu biết về đặc điểm một số loài thực vật, động vật, hiểu được cách chăm sóc và ích lợi của chúng. Vì vậy, khi làm bài văn miêu tả (cây cối, con vật), các em sẽ tả cặn kẽ, sinh động và thể hiện tình cảm của mình một cách. Khen ngợi, động viên kịp thời
Để kích thích học sinh học tập nói chung, học văn miêu tả nói riêng hãy dành cho các em những lời khen thích đáng. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và phát huy được khả năng tiềm tàng của bản thân, từ đó loại bỏ được những lo âu, tự ti cố hữu.
Trên đây là một số biện pháp mà Gv có thể linh hoạt áp dụng khi dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Phân môn Tập làm văn là một phân môn thực hành và giàu sức sáng tạo cá nhân. Có nhiều cách để viết bài văn miêu tả và cũng có nhiều biện pháp để dạy văn miêu tả. Trên cơ sở kinh nghiệm của giáo dục, mỗi giáo viên đều có những cách thức dạy học riêng nhằm thực hiện tốt nội dung chương trình đã quy định và chuẩn bị cho chương trình GD phổ thông mới!